Theo truyền thuyết, cha Lạc Long Quân (Rồng) và mẹ Âu Cơ (Tiên) là Thủy tổ sinh ra người Việt. Hùng Vương thứ nhất là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ, lên ngôi vào năm 2879 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, truyền tới 18 đời Vua Hùng (Hùng Vương là tên gọi các vị Vua thời nước Văn Lang). Đến năm 258 trước công nguyên thì nhà nước Văn Lang rơi vào tay nhà Thục Phán (An Dương Vương), lịch sử nước Việt trải qua thăng trầm mấy nghìn năm đã xây dựng nên một nền tảng của dân tộc, nền tảng văn hóa Việt và truyền thống yêu nước. Từ đó, đã sinh ra dân tộc Việt Nam anh hùng – một dân tộc chưa từng biết cúi đầu khuất phục bất kỳ một tên giặc ngoại xâm nào.
Để ghi nhớ công ơn của các Vua Hùng có công khai thiên, lập địa; đời vua Lê Thánh Tông năm 1470 và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 đã sao chép đóng dấu kiểm để tại Đền Hùng, nói rằng: “Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến triều đại ta bây giờ là Hậu Lê (1418 - 1527) vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi…”. Đến thời nhà Nguyễn tiếp tục tôn vinh các Vua Hùng, năm Khải Định thứ 2 (1917), quan tuần phủ Lê Trung Ngọc đã xin Bộ Lễ “ấn định ngày quốc lễ vào 10/3 Âm lịch hàng năm làm ngày cả nước làm lễ tế Vua Hùng”
Kế tục truyền thống cao đẹp, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của ông cha, ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22/SL-CTN ngày 18/02/1946 cho nhân dân nghỉ ngày 10/3 (Âm Lịch) hằng năm; ngày 19/9/1945, Hồ Chủ tịch về thăm thăm đền Hùng, tại đây Người đã nói: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước – Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng một tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm quý nhằm báo cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Giỗ Tổ Hùng Vương được nhà nước cụ thể hóa với các quy định về tế lễ, dâng hương, các cơ quan nhà nước chủ trì. Nghị định số 145/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ Quy định về tổ chức ngày kỷ niệm; nghi thức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua; nghi lễ đối ngoại và đón, tiếp khách nước ngoài, trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương.
Ngày 6/12/ 2012, tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp quốc) đã công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây chính là đề cao sự thống nhất trong đa dạng văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức trang nghiêm trọng thể theo truyền thống văn hóa dân tộc. Phần lễ có nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước, các tỉnh thành được tổ chức trang nghiêm, thành kính. Phần hội tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa phong phú xung quanh chân núi Hùng: Các trò diễn dân gian (đánh trống đồng, cồng chiêng, đâm đuống, thi gói, nấu bánh chưng, giã bánh giầy, kéo lửa thổi cơm thi…), các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của các tỉnh, thành, các đội văn nghệ quần chúng trình diễn, các hoạt động thi đấu thể thao được tổ chức quy củ, mang đậm chất văn hóa cội nguồn.
Người dân ở địa phương có di tích (đình, đền, miếu...) thờ Hùng Vương và các nhân vật lịch sử liên quan thời kỳ Hùng Vương tự nguyện tổ chức hoạt động tế lễ, rước kiệu về Đền Hùng, chuẩn bị các lễ vật từ đặc sản của địa phương để dâng cúng các Vua Hùng, tham gia các hoạt động văn hóa dân gian. Giỗ Tổ Hùng Vương ngày càng có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng, giáo dục sâu sắc ý thức dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước.
2. Ý nghĩa, giá trị của ngày giỗ Quốc Tổ
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là biểu hiện cao nhất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, một trong những tín ngưỡng đặc thù, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần và là một trong những thành tố tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đó là lòng biết ơn đối với Hùng Vương và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước.
Trải qua bao biến cố của lịch sử, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam luôn chiếm vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc; được bảo tồn và lưu truyền qua bao nhiêu thế hệ với sức sống lâu bền và ngày một lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng xã hội.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có giá trị giáo dục đạo lý truyền thống dân tộc, đó là “con người có tổ có tông” và “uống nước nhớ nguồn” được trao truyền từ đời này sang đời khác. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương giáo dục tinh thần yêu nước của con dân Việt, thể hiện lòng tự hào về cội nguồn quốc gia dân tộc, là một hình thức biểu hiện mạnh mẽ nhận thức về lịch sử và sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam, từ đó hình thành tinh thần tự cường dân tộc, ý thức độc lập tự chủ./.
Tài liệu tham khảo: Bài viết “Đôi nét về về lịch sử và ý nghĩa ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương 10/3” của TS. Bùi Hữu Dược, ThS. Bùi Thái Hà, Tạp chí Công tác tôn giáo tháng 4/2021.
Tác giả bài viết: Huỳnh Thanh Khanh - BTG
Ý kiến bạn đọc